Luật hóa Nghị quyết số 42/2017/QH14

Bên cạnh nhiệm vụ tăng trưởng tín dụng, xử lý nợ là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt, được Đảng ủy, Hội đồng thành viên, Ban Điều hành Agribank sát sao chỉ đạo thực hiện nhằm đảm bảo an toàn và hiệu quả hoạt động, nâng cao năng lực tài chính. Trong quá trình xử lý nợ, đặc biệt là với các khoản nợ xấu, để đạt được hiệu quả, cùng với việc sử dụng những công cụ, cơ chế, chính sách, thủ tục pháp lý thông thường, cần phải có những công cụ đặc thù như quy định tại Nghị quyết số 42/2017/QH14 và một hành lang pháp lý đủ mạnh để vận hành.

góp phần lành mạnh hóa hệ thống tài chính - ngân hàng

Nợ xấu trong hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng (TCTD) gây ảnh hưởng nghiêm trọng không chỉ đến hoạt động ngân hàng nói riêng mà còn cả toàn xã hội nói chung. Xử lý nợ xấu không chỉ là một vấn đề mang tính kinh tế mà còn là một nhiệm vụ chính trị quan trọng của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, thực tế cho thấy việc xử lý nợ xấu từ năm 2017 gặp nhiều khó khăn, vướng mắc xuất phát từ hạn chế về mặt cơ chế, chính sách pháp luật cũng như thái độ bất hợp tác của khách hàng, chủ tài sản bảo đảm và thiếu sự phối hợp, thống nhất giữa các cơ quan nhà nước có liên quan như Tòa án, Công an, Cơ quan thi hành án, Thuế, Văn phòng đăng ký đất đai,… Vì vậy, để xử lý nợ xấu không chỉ sử dụng những công cụ, cơ chế, chính sách, thủ tục pháp lý thông thường mà đòi hỏi cần phải có những công cụ đặc thù trong quá trình xử lý nợ xấu và một hành lang pháp lý đủ mạnh để cơ chế, chính sách đặc thù như vậy vận hành.

Ngày 21/6/2017, Quốc hội ban hành Nghị quyết số 42/2017/QH14 (gọi tắt là Nghị quyết số 42) có hiệu lực thi hành từ ngày 15/8/2017 nhằm xử lý triệt để nợ xấu. Nghị quyết số 42 có thời gian thí điểm 05 năm, sau đó tiếp tục kéo dài thời gian đến hết ngày 31/12/2023 theo Nghị quyết số 62/2022/QH15.
Thông qua Nghị quyết số 42, một loạt cơ chế chính sách đặc thù đã được áp dụng để xử lý nợ xấu như: mua bán khoản nợ xấu, áp dụng thủ tục rút gọn trong giải quyết tranh chấp liên quan đến tài sản bảo đảm tại Tòa án; xử lý tài sản bảo đảm là bất động sản; chuyển nhượng tài sản bảo đảm; thu giữ tài sảm bảo đảm; hoàn trả tài sản bảo đảm là vật chứng trong vụ án hình sự; không kê biên tài sản bảm đảm của bên phải thi hành án;….
Ngay khi Nghị quyết số 42 có hiệu lực, Agribank đã nhanh chóng chỉ đạo, triển khai, áp dụng cơ chế, chính sách mới của Nghị quyết để xử lý nợ xấu, đồng thời phối hợp với các cơ quan, tổ chức để nắm bắt quan điểm, định hướng xử lý, làm rõ các vấn đề còn vướng mắc, khó khăn để thống nhất áp dụng. Qua hơn 06 năm triển khai thực hiện, công tác xử lý xấu tại Agribank đã đạt được nhiều kết quả tích cực.

Việc xử lý nợ xấu thành công giúp Agribank tăng khả năng sinh lời, củng cố nền tảng tài chính, hỗ trợ phương án tái cơ cấu gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021-2025, đồng thời giúp Agribank tiếp tục giữ vững vai trò Ngân hàng thương mại chủ lực của Nhà nước.

Việc sớm thu hồi nợ xấu giúp Agribank tái cơ cấu danh mục tín dụng và nâng cao năng lực tài chính, để dành nhiều nguồn lực tập trung vào các ngành nghề, lĩnh vực quan trọng, tạo điều kiện mở rộng tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn. Bên cạnh đó, chất lượng tín dụng được cải thiện giúp ngân hàng tiết kiệm nhiều chi phí hoạt động, tạo tiền đề để Agribank xây dựng nhiều chính sách hỗ trợ khách hàng về lãi suất, từ đó tạo dựng niềm tin, hình ảnh của ngân hàng trong mắt người dân.

Nghị quyết số 42 khơi thông “điểm nghẽn” pháp lý trong xử lý nợ xấu

Nợ xấu tăng - khó xử lý khi Nghị quyết số 42 hết hiệu lực thi hành

Luật các TCTD 2024 ban hành ngày 18/01/2024 và có hiệu lực ngày 01/7/2024 là một bước tiến xa trong việc tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật ngân hàng, phản ánh hoạt động ngân hàng sát với thực tế trong nước và thông lệ quốc tế. Đáng chú ý, Luật các TCTD 2024 đã luật hóa một số quy định của Nghị quyết số 42, chính thức ghi nhận việc xử lý nợ xấu của các TCTD vào một văn bản ở cấp độ Luật. Tuy nhiên, một số cơ chế chính sách có hiệu quả của Nghị quyết số 42 không được quy định vào Luật các TCTD 2024 đã dẫn tới khó khăn cho các TCTD khi áp dụng quy định để xử lý nợ xấu. Kể từ khi Nghị quyết số 42 hết hiệu lực, việc xử lý tài sản bảo đảm đối với những trường hợp bên bảo đảm thiếu hợp tác, không giao tài sản (lảng tránh, không liên lạc, phản hồi,…) trở nên khó khăn, kém hiệu quả hơn do phải khởi kiện ra tòa, mất nhiều thời gian, làm phát sinh chi phí xử lý nợ, giảm hiệu quả thu hồi nợ. Bên cạnh đó, một số cơ quan thi hành án dân sự khi thi hành án một bản án khác mà bên bảo đảm phải thi hành đã áp dụng Điều 90 Luật Thi hành án dân sự để tiến hành kê biên tài sản bảo đảm của bên bảo đảm này tại Agribank, điều này ảnh hưởng đến các biện pháp xử lý nợ của Agribank đang áp dụng, đặc biệt là biện pháp bán nợ (phải chuyển giao quyền, nghĩa vụ liên quan đến hợp đồng bảo đảm cho bên mua nợ).

Theo thống kê của Hiệp hội Ngân hàng, tới cuối tháng 12/2024, tỷ lệ nợ xấu tại các TCTD chiếm 5,36% so với tổng dư nợ. Nếu loại trừ 5 ngân hàng tái cấu trúc thì tỷ lệ nợ xấu khoảng 1,93%, tăng khoảng 0,2% so với năm 2023. Trong năm 2024, tỷ lệ xử lý nợ xấu bằng nguồn dự phòng rủi ro của các TCTD chiếm khoảng 48%, trong khi tỷ lệ khách hàng tự trả nợ chỉ chiếm 3-6%, còn lại nợ bán cho VAMC, nợ thi hành án thông qua bán tài sảm bảo đảm chiếm tỷ lệ rất thấp, đạt khoảng 7.000 tỷ đồng. 

Trong 02 tháng đầu năm 2025, nợ xấu tăng 34.000 tỷ so với cuối năm 2024, trong khi tốc độ xử lý nợ xấu chỉ đạt khoảng 15.000 tỷ đồng do các TCTD trích lập dự phòng rủi ro để xử lý.

Quy định này cho phép các TCTD có quyền thu giữ cũng như bên bảo đảm, bên đang giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu có trách nhiệm bàn giao tài sản bảo đảm cho TCTD. Việc thu giữ phải được công khai thông tin và có sự tham gia của một số cơ quan chức năng.
Cần phải khẳng định rằng quyền thu giữ tài sản bảo đảm là một quyền hợp pháp, không phải là sự xâm phạm quyền con người hay áp bức đối với bên yếu thế. Xuyên suốt các quy định tại Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các TCTD 2024 cũng như các nội dung được trao đổi tại các buổi tọa đàm, đơn vị soạn thảo và các chuyên gia luôn nhấn mạnh rằng quyền thu giữ phải được thực hiện với tinh thần trách nhiệm, công khai minh bạch và trong khuôn khổ pháp lý rõ ràng, trước sự chứng kiến của các cơ quan chức năng. Quyền thu giữ không phải một quyền có thể sử dụng tùy tiện mà chỉ được áp dụng trong một số trường hợp được pháp luật quy định trước.
Luật hóa quyền thu giữ tài sản bảo đảm giúp TCTD chủ động trong việc xử lý nợ, tiết kiệm được thời gian, chi phí cho các TCTD, đồng thời cũng mang tính răn đe đối với bên đi vay. Ngoài ra, việc xử lý nợ qua hệ thống tư pháp trong thời gian dài khiến tài sản bảo đảm bị bỏ không hoặc suy giảm giá trị, ảnh hưởng tới cả TCTD cũng như bên đi vay và bên bảo đảm nên quyền thu giữ cũng góp phần tiết kiệm, giảm lãng phí các nguồn lực trong xã hội.

Chính sách về quyền thu giữ tài sản bảo đảm:
Trước những con số đáng báo động trên, việc đem trở lại một số quy định của Nghị quyết số 42 như:
(i) Quyền thu giữ tài sản bảo đảm;
(ii) Kê biên tài sản của bên phải thi hành án đang được sử dụng làm tài sản bảo đảm cho khoản nợ xấu;
(iii) Hoàn trả tài sản bảo đảm là vật chứng trong vụ án hình sự, vụ việc vi phạm hành chính là thực sự cần thiết, giúp khắc phục những khó khăn, vướng mắc đang cản trở các TCTD thực hiện quyền hợp pháp của mình, tạo khuôn khổ pháp lý về xử lý nợ xấu đồng bộ và thống nhất, đảm bảo phù hợp với nhu cầu thực tiễn.

Các nội dung cơ bản của Nghị quyết số 42 được đề xuất đưa vào Luật

Nội dung cơ bản của các chính sách được đề xuất bổ sung lần này bao gồm:
Chính sách kê biên tài sản của bên phải thi hành án đang được sử dụng làm tài sản bảo đảm cho khoản nợ xấu:
Tài sản bảo đảm của các TCTD chỉ bị kê biên trong một số trường hợp cấp bách hoặc có sự đồng ý từ phía TCTD. Đây là quy định nhằm bảo vệ quyền lợi của TCTD đối với tài sản bảm đảo. Bởi lẽ giao dịch bảo đảm là một giao dịch được pháp luật ghi nhận và bảo vệ, đồng thời quyền đối với tài sản bảo đảm đã được xác lập hợp pháp thông qua việc công chứng, đăng ký giao dịch bảo đảm.
Chính sách hoàn trả tài sản bảm đảo là vật chứng trong vụ án hình sự, vụ việc vi phạm hành chính:
Chính sách này nhằm tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc đối với việc hoàn trả tài sản bảo đảm có liên quan đến vụ án hình sự hoặc vi phạm hành chính. Theo đó, tài sản bảo đảm là vật chứng trong vụ án hình sự, là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính được hoàn trả cho TCTD nếu không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án hoặc không bị tịch thu.
Quy định này tạo hành lang pháp lý cho các cơ quan có thẩm quyền trả lại tài sản đảm bảo cho TCTD để xử lý nợ xấu, hạn chế lãng phí, thất thoát, đặc biệt là đối với các tài sản là nhà xưởng, máy móc, thiết bị, phương tiện,… sẽ bị hư hỏng, xuống cấp, suy giảm giá trị theo thời gian do quy trình tố tụng kéo dài, gây ảnh hưởng đến quyền lợi của các TCTD cũng như chính bên đi vay và bên phải bảo đảm.

Việc sửa đổi, bổ sung Luật Các TCTD 2024 lần này tập trung vào việc luật hóa 03 chính sách nêu trên, nhằm đẩy nhanh tốc độ xử lý nợ xấu và tăng cường tính ổn định cho hệ thống tài chính, khơi thông các nguồn lực trong xã hội. Cần lưu ý rằng các chính sách này không nhằm mục đích nâng cao quyền lực của các TCTD với vai trò bên cho vay mà hướng tới việc hài hòa hóa mối quan hệ giữa bên cho vay, bên đi vay và bên bảo đảm.
Về tổng thể, luật hóa các chính sách trên mang lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế cũng như các chủ thể trong xã hội, bổ sung cơ chế, chính sách pháp luật cần thiết trong công tác xử lý thu hồi nợ của các ngân hàng, tạo hành lang pháp lý ổn định, lâu dài và là giải pháp để các TCTD xử lý dứt điểm nợ xấu, đồng thời nâng cao tinh thần thượng tôn pháp luật cũng như ý thức, trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong cả việc đi vay lẫn trả nợ. Việc này không chỉ giúp các TCTD an tâm triển khai các biện pháp xử lý nợ mà còn tăng cường sự phối hợp chủ động của các cơ quan chức năng trong hỗ trợ xử lý tài sản bảo đảm.
Bên cạnh những ý kiến đề xuất cần phải luật hóa triệt để Nghị quyết số 42, vẫn còn nhiều luồng quan điểm chưa đồng tình với các nội dung trên. Đa số các ý kiến cho rằng việc luật hóa những chính sách này có thể tác động, ảnh hưởng tiêu cực đến xã hội, không phù hợp với chủ trương, định hướng xây dựng nhà nước pháp quyền, một nhà nước coi trọng và tôn trọng quyền con người. Những chính sách như thu giữ tài sản bảo đảm có thể bị lạm dụng với tổ chức có vị thế, nắm trong tay nguồn lực (tài sản, con người, quan hệ,….) dễ dàng “cưỡng chế” tài sản của bên bảo đảm mà không thông qua một cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tuy nhiên, những quan điểm này chưa thực sự phù hợp với thực tế, nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội và tiệm cận với thông lệ pháp luật quốc tế.

Thứ nhất, chính sách “quyền thu giữ” không phải là việc tự do thực hiện một cách tùy tiện của TCTD mà dựa trên những điều kiện chặt chẽ, trước hết đó là sự tự nguyện khi thiết lập giao dịch bảo đảm đã được công chứng, chứng thực, sau nữa phải tiến hành những thủ tục như thông báo, niêm yết chặt chẽ.

Thứ hai, mặc dù TCTD được “quyền thu giữ” nhưng việc khi thực hiện luôn đặt dưới sự giám sát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nếu có bất kỳ vi phạm nào trong trình tự thu giữ thì bên thu giữ hoàn toàn có thể bị khiếu kiện, tố cáo và phải chịu trách nhiệm (dân sự, hình sự) với các thiệt hại của các bên liên quan.

Thứ ba, bên nhận bảo đảm và bên bảo đảm là những chủ thể độc lập, ngang bằng về địa vị pháp lý phải được đối xử bình đẳng trước pháp luật, không thể chỉ xem trọng một bên mà phủ nhận quyền, lợi ích hợp pháp của bên khác. Vì vậy, việc luật hóa “quyền thu giữ” cũng như các chính sách khác như trên là yêu cầu tất yếu, phù hợp với sự phát triển kinh tế, tiến bộ xã hội cũng như thông lệ quốc tế.

Sau khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các TCTD 2024 được ban hành, Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước cũng như các cơ quan chức năng sẽ có cơ sở ban hành các văn bản dưới luật, hình thành nên một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về xử lý nợ xấu của các TCTD, tạo dựng môi trường kinh tế lành mạnh, hoạt động cấp tín dụng và xử lý nợ chuyên nghiệp, bài bản cho Việt Nam, góp phần nâng cao mức độ an toàn, lành mạnh của hệ thống ngân hàng Việt Nam.

Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền (Tòa án, Viện kiểm sát, Công an, Bộ Tư pháp, Cơ quan thi hành án, Thuế, Văn phòng đăng ký đất đai,…) xây dựng hành lang pháp lý để phối hợp, triển khai những chính sách được luật hóa vào thực tế thông qua những trình tự, thủ tục của từng ngành, liên ngành.
Cần sớm thông qua việc hoàn thiện chính sách luật hóa Nghị quyết số 42, ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các TCTD để tạo cơ sở pháp lý cho các TCTD xử lý, thu hồi các khoản nợ xấu, khơi thông nguồn lực, thúc đẩy phát triển kinh tế.

Đề xuất của Agribank

Agribank News