Việc sửa đổi, bổ sung Luật Các TCTD 2024 lần này tập trung vào việc luật hóa 03 chính sách nêu trên, nhằm đẩy nhanh tốc độ xử lý nợ xấu và tăng cường tính ổn định cho hệ thống tài chính, khơi thông các nguồn lực trong xã hội. Cần lưu ý rằng các chính sách này không nhằm mục đích nâng cao quyền lực của các TCTD với vai trò bên cho vay mà hướng tới việc hài hòa hóa mối quan hệ giữa bên cho vay, bên đi vay và bên bảo đảm.
Về tổng thể, luật hóa các chính sách trên mang lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế cũng như các chủ thể trong xã hội, bổ sung cơ chế, chính sách pháp luật cần thiết trong công tác xử lý thu hồi nợ của các ngân hàng, tạo hành lang pháp lý ổn định, lâu dài và là giải pháp để các TCTD xử lý dứt điểm nợ xấu, đồng thời nâng cao tinh thần thượng tôn pháp luật cũng như ý thức, trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong cả việc đi vay lẫn trả nợ. Việc này không chỉ giúp các TCTD an tâm triển khai các biện pháp xử lý nợ mà còn tăng cường sự phối hợp chủ động của các cơ quan chức năng trong hỗ trợ xử lý tài sản bảo đảm.
Bên cạnh những ý kiến đề xuất cần phải luật hóa triệt để Nghị quyết số 42, vẫn còn nhiều luồng quan điểm chưa đồng tình với các nội dung trên. Đa số các ý kiến cho rằng việc luật hóa những chính sách này có thể tác động, ảnh hưởng tiêu cực đến xã hội, không phù hợp với chủ trương, định hướng xây dựng nhà nước pháp quyền, một nhà nước coi trọng và tôn trọng quyền con người. Những chính sách như thu giữ tài sản bảo đảm có thể bị lạm dụng với tổ chức có vị thế, nắm trong tay nguồn lực (tài sản, con người, quan hệ,….) dễ dàng “cưỡng chế” tài sản của bên bảo đảm mà không thông qua một cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tuy nhiên, những quan điểm này chưa thực sự phù hợp với thực tế, nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội và tiệm cận với thông lệ pháp luật quốc tế.
Thứ nhất, chính sách “quyền thu giữ” không phải là việc tự do thực hiện một cách tùy tiện của TCTD mà dựa trên những điều kiện chặt chẽ, trước hết đó là sự tự nguyện khi thiết lập giao dịch bảo đảm đã được công chứng, chứng thực, sau nữa phải tiến hành những thủ tục như thông báo, niêm yết chặt chẽ.
Thứ hai, mặc dù TCTD được “quyền thu giữ” nhưng việc khi thực hiện luôn đặt dưới sự giám sát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nếu có bất kỳ vi phạm nào trong trình tự thu giữ thì bên thu giữ hoàn toàn có thể bị khiếu kiện, tố cáo và phải chịu trách nhiệm (dân sự, hình sự) với các thiệt hại của các bên liên quan.
Thứ ba, bên nhận bảo đảm và bên bảo đảm là những chủ thể độc lập, ngang bằng về địa vị pháp lý phải được đối xử bình đẳng trước pháp luật, không thể chỉ xem trọng một bên mà phủ nhận quyền, lợi ích hợp pháp của bên khác. Vì vậy, việc luật hóa “quyền thu giữ” cũng như các chính sách khác như trên là yêu cầu tất yếu, phù hợp với sự phát triển kinh tế, tiến bộ xã hội cũng như thông lệ quốc tế.
Sau khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các TCTD 2024 được ban hành, Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước cũng như các cơ quan chức năng sẽ có cơ sở ban hành các văn bản dưới luật, hình thành nên một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về xử lý nợ xấu của các TCTD, tạo dựng môi trường kinh tế lành mạnh, hoạt động cấp tín dụng và xử lý nợ chuyên nghiệp, bài bản cho Việt Nam, góp phần nâng cao mức độ an toàn, lành mạnh của hệ thống ngân hàng Việt Nam.