Trách nhiệm giải trình
Thước đo niềm tin, đạo đức công vụ và công cụ kiểm soát quyền lực
Trong hệ thống chính trị Việt Nam, trách nhiệm giải trình không chỉ là việc cán bộ, công chức “báo cáo và trả lời” trước cấp có thẩm quyền, mà sâu xa hơn, là biểu hiện của tinh thần công khai, minh bạch và tôn trọng Nhân dân. Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cơ chế giải trình đóng vai trò then chốt để kiểm soát quyền lực công, ngăn ngừa sự tha hóa, lạm dụng quyền lực, bảo đảm mọi quyết định và hành động công vụ đều hướng tới lợi ích hợp pháp của người dân, qua đó góp phần đẩy lùi TNTCLP.
Cơ sở pháp lý cho nguyên tắc này được thể hiện trong Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018, trong đó quy định “công khai, minh bạch trong tổ chức và hoạt động là biện pháp phòng ngừa tham nhũng quan trọng”. Bên cạnh đó, Luật Cán bộ, công chức (sửa đổi năm 2019) xác định rõ nghĩa vụ của cán bộ, công chức là “chịu trách nhiệm về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao”. Những quy định đó hình thành hành lang pháp lý bắt buộc mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân phải giải trình và chịu trách nhiệm trước pháp luật và Nhân dân về việc thực thi quyền lực công.
Khi cơ chế giải trình được thực hiện nghiêm túc, người dân được bảo đảm quyền “được biết, được hỏi, được kiểm tra và được giám sát” hoạt động công vụ ở mọi cấp. Khi đó, niềm tin của Nhân dân đối với Đảng và Nhà nước được củng cố, tạo nên sự đồng thuận xã hội bền vững. Ngược lại, nếu thiếu cơ chế giải trình, quyền lực dễ bị lạm dụng, phát sinh tiêu cực, làm xói mòn lòng tin của Nhân dân. Do đó, trách nhiệm giải trình không chỉ là công cụ kiểm soát quyền lực mà còn là thước đo văn hóa chính trị và đạo đức công vụ, thể hiện sinh động tư tưởng “công bộc của dân” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn.